8h45’.Thứ ba.04.01.2011
GIỚI THIỆU HỌC TRÌNH
Trong chương trình học của bộ môn ĐẠI CƯƠNG VĂN HỌC HÁN TẠNG gồm những phần sau:
I. TỔNG QUAN ĐẠI TẠNG KINH HÁN VĂN
1. Quá trình hình thành Đại tạng kinh Hán văn
1.1. Định nghĩa Đại tạng kinh
1.2. Các kỳ kiết tập kinh điển
1.3. Phật giáo truyền nhập Trung Quốc
1.4. Các thời kỳ phiên dịch Kinh điển
1.5. Các đại dịch giả tiêu biểu
1.6. Các hình thức của Đại tạng kinh
2. Các ấn bản Đại tạng kinh chữ Hán
2.1. Trung Quốc (Tống, Nguyên, Minh, Thanh, cận hiện đại)
2.2. Cao Ly
2.3. Nhật
3. Cấu trúc Đại Chánh Tan Tu Đại tạng kinh
3.1. Duyên khởi và tôn chỉ biên tập
3.2. Phân loại kinh điển
II. VĂN HỌC KINH LUẬT LUẬN HÁN TẠNG
1. Văn học Kinh tạng
1.1. Văn học Kinh A Hàm
1.2. Văn học Kinh Đại thừa (Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích, Niết Bàn)
1.3. Văn học kinh điển Mật tông
2. Văn học Luật tạng
2.1. Luật Nam truyền
2.2. Luật Bắc truyền
3. Văn học Luận tạng
3.1. Luận Bắc truyền Phật giáo
3.2. Luận Nam truyền phật giáo
4. Văn học tục tạng
4.1. Văn học Chú sớ
4.2. Văn học Tục truyện
I. TỔNG QUAN ĐẠI TẠNG KINH HÁN VĂN
1. Quá trình hình thành Đại tạng kinh Hán văn
1.1. Định nghĩa Đại tạng kinh
- Đại = lớn, nhiều.
- Kinh = lời dạy của Phật.
- Tạng = giỏ, kho, nơi cất chứa.
Danh từ Đại tạng kinh đầu tiên khi mới phiên dịch thì chưa được sử dụng mà gọi là: Chúng kinh, Quần kinh hay Nhất thiết kinh. Từ đời Tùy (581 – 618) trở về sau mới có tên Đại tạng kinh
Đại tạng kinh ban đầu chỉ có một, về sau có nhiều nước cho biên dịch ra tiếng của nước mình nên có: Tạng văn Đại tạng kinh, Pali ngữ hệ Đại tạng kinh, Tây Hạ văn Đại tạng kinh, Mông (Cổ) văn Đại tạng kinh, Mãn văn Đại tạng kinh, Nhật văn Đại tạng kinh.
Đại tạng kinh gồm 2 phần:
- Kinh điển phiên dịch: Kinh, Luật, Luận.
- Những trước tác Phật học do người Trung Quốc soạn: Chương sớ, luận trước, ngữ lục, sử truyện, âm nghĩa, mục lục, tạp soạn.
1.2. Các kỳ kiết tập kinh điển
Lần I:
Lý do: Vì lời nói vô trí của Tỷ kheo Bạt Nan Đà (Tu Bạt Đà La)
Địa điểm: Thành Vương Xá (Hang Thất Diệp, núi Tượng Đầu)
Thời gian: mùa hạ đầu tiên sau Phật nhập Niết bàn
Số người tham dự: 500 vị A La Hán
Chủ tọa : Tôn giả Đại Ca Diếp
Người trùng tuyên kinh tạng : Tôn giả A Nan
Người trùng tuyên Luật tạng : Tôn giả Ưu Pa Li
* Các kỳ kiết tập (tham khảo thêm)
Theo các tài liệu Cullavagga, Dīpavamsa, Mahāvamsa và Samantapāsādikā thì chỉ mấy tháng sau ngày bậc Đạo sư nhập Niết bàn, các đệ tử lớn của ngài đã nhóm họp tại Vương Xá (Rājagaha) để tụng đọc lại những lời dạy của ngài mà phần lớn họ đều ghi nhớ nằm lòng. Sự nhóm họp tụng đọc như vậy được gọi là hội nghị kiết tập kinh điển (sangīti) mà mục đích là để làm sống lại lời dạy của bậc Đạo sư bên cạnh sự phân tích bổ sung hay gạn lọc một số giáo lý được ghi nhớ thiếu sót hoặc nhầm lẫn giữa các Tỳ kheo. Mục đích cuộc kết tập kinh điển “Chư Tôn giả, chúng ta hãy cùng đọc lại Pháp và Luật với mục đích không để cho tà giáo nào lọt vào và không để một nhóm người tà kiến nào lớn mạnh trong khi các bậc đa văn thông tuệ lại suy yếu” .Hội nghị quy tụ một số đông các tỷ kheo giỏi về kinh, luật và được chủ trì bởi những vị trưởng lão có uy tín và uyên thâm về Phật học. Người ta bảo Mahā Kassapa, vị tôn giả cao niên có uy tín nhất của Tăng già đương thời, nhận trách nhiệm chủ trì cuộc hội nghị kiết tập lần thứ nhất tổ chức ở Rājagaha, bên cạnh hai vị đệ tử thân tín khác của đức Phật là Ānanda và Upāli, có trách nhiệm tuyên đọc Pháp (Dhamma) và Luật (Vinaya) . Ít nhất có ba cuộc hội nghị kiết tập như vậy đã diễn ra tại Ấn Độ trước khi giáo lý của đức Phật được truyền sang Tích Lan do công của Trưởng lão Mahinda. Trong hai kỳ kiết tập đầu, hội nghi tập trung chủ yếu vào việc tụng Pháp (Dhamma) và Luật (Vinaya)’. Theo sử liệu của nhà nghiên cứu Thích Tâm Minh, ‘tám năm sau khi lên ngôi, tức 262 năm BC, Asoka từ một con người khét tiếng tàn bạo (Candāsoka) chuyển hẳn qua một con người đầy nhân từ (Dhammāsoka), sự kiện này hẳn đã tạo ra không ít các truyền thuyết và huyền thoại về một ông vua đầy quyền lực nhưng giàu lòng nhân ái như Asoka’. Do vậy, đến kỳ kiết tập lần thứ ba được tổ chức ở Pātaliputta dưới thời vua Asoka, các bản luận hay Abhidhamma cũng được đưa vào nội dung kiết tập. Tập Kathāvatthu thuộc Luận tạng được xem là do Trưởng lão Moggaliputta Tissa, chủ tịch hội nghị, biên soạn trong khoảng thời gian chín tháng của cuộc hội nghị. [1]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét