Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
13. ĐẠI KINH KHỔ UẨN
(Mahadukkhakkhandhasutta)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana
(Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Lúc ấy nhiều Tỷ-kheo buổi
sáng đắp y, cầm y bát, vào thành Savatthi khất thực. Rồi các Tỷ-kheo ấy suy
nghĩ: "Nay còn quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hãy đi đến
ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo". Các Tỷ-kheo ấy đi đến ngôi vườn các Du sĩ
ngoại đạo, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã giao rồi ngồi xuống một bên.
Các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với các Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên.
– Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết
hoàn toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục.
Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng
tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama
nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết
hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền, ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự
sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề
giáo huấn?
Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ cũng không chỉ
trích những lời nói các Du sĩ ngoại đạo, không hoan hỷ, không chỉ trích, các Tỷ-kheo
từ chỗ ngồi đứng dậy, từ biệt với ý nghĩ: "Chúng ta sẽ học ý nghĩa lời nói
này từ Thế Tôn".
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi khất thực ở
Savatthi, khi ăn xong và đi khất thực trở về, liền đến chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ Ngài
và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, ở đây chúng con buổi sáng đắp
y, cầm y bát vào thành Savatthi khất thực. Bạch Thế Tôn, rồi chúng con suy
nghĩ: "Nay còn quá sớm để đi khất thực ở Savatthi. Chúng ta hãy nghĩ đến
ngôi vườn các Du sĩ ngoại đạo". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến ngôi vườn
các Du sĩ ngoại đạo, sau khi đến xong, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã
giao rồi ngồi xuống một bên, Bạch Thế Tôn, các Du sĩ ngoại đạo ấy nói với chúng
con đang ngồi một bên: "Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn
toàn về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các dục. Chư
Hiền, Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp, chúng tôi
cũng nêu rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các sắc pháp. Chư Hiền, Sa-môn Gotama nêu
rõ sự hiểu biết hoàn toàn về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết
hoàn toàn về các cảm thọ. Chư Hiền ở đây có sự đặc thù nào, sự dị biệt nào, sự
sai khác nào giữa Sa-môn Gotama và chúng tôi về vấn đề thuyết pháp hay vấn đề
giảng huấn?" Bạch Thế Tôn, chúng con không hoan hỷ, không chỉ trích những
lời nói các Du sĩ ngoại đạo. Không hoan hỷ, không chỉ trích, chúng con từ chỗ
ngồi đứng dậy, từ biệt với ý nghĩ: "Chúng ta sẽ học ý nghĩa lời nói này từ
Thế Tôn".
– Này các Tỷ-kheo, các Du sĩ ngoại đạo nói
như vậy cần được trả lời như sau: "Chư Hiền, thế nào là vị ngọt các dục?
Thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các sắc
pháp, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly? Thế nào là vị ngọt các cảm
thọ, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự xuất ly?" Này các Tỷ-kheo, khi
được hỏi vậy, các Du sĩ ngoại đạo không thể trả lời được và sẽ bị mắc vào các
khó khăn khác. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này không thuộc khả năng
hiểu biết của họ. Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một ai trong thế giới này với
chư Thiên, Mara, Phạm thiên, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài
Người, mà câu trả lời các câu hỏi được chấp nhận, trừ Như Lai, đệ tử Như Lai và
những ai được nghe hai vị này.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
dục? Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục này: Các sắc pháp do nhãn căn
nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng với dục, hấp dẫn, các tiếng
do nhĩ căn nhận thức... các hương do tỷ căn nhận thức... các vị do thiệt căn nhận
thức... các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ứng
với dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, có năm pháp tăng trưởng dục như vậy. Này các
Tỷ-kheo, y cứ vào năm pháp tăng trưởng dục này, có lạc hỷ khởi lên, như vậy là
vị ngọt các dục.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các dục? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử nuôi sống với nghề nghiệp, như
đếm ngón tay, như tính toán, như ước toán, như làm ruộng, như buôn bán, như
chăn bò, như bắn cung, như làm công cho vua, như làm một nghề nào khác. Người ấy
phải chống đỡ lạnh, phải chống đỡ nóng, phải chịu đựng sự xúc chạm của ruồi, muỗi,
gió, sức nóng, mặt trời, các loài bò sát, bị chết đói chết khát. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là sự nguy hiểm các dục, thiết thực hiện tại, thuộc khổ uẩn, lấy dục
làm nhân, lấy dục làm duyên, là nguồn gốc của dục, là nguyên nhân của dục. Này
các Tỷ-kheo, nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như
vậy, nhưng các tài sản ấy không được đến tay mình, vị ấy than vãn, buồn phiền
khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh: "Ôi! Sự nỗ lực của ta thật sự là vô
ích, sự tinh cần của ta thật sự không kết quả". Này các Tỷ-kheo, như vậy,
là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Này các Tỷ-kheo,
nếu thiện nam tử ấy nỗ lực như vậy, tinh cần như vậy, tinh tấn như vậy, và các
tài sản ấy được đến tay mình, vì phải hộ trì các tài sản ấy, vị ấy cảm thọ sự
đau khổ, ưu tư: "Làm sao các vu húa khỏi cướp đoạt chúng, làm sao trộm cướp
khỏi cướp đoạt chúng, làm sao lửa khỏi đốt cháy, nước khỏi cuốn trôi, hay các kẻ
thừa tự không xứng đáng khỏi cướp đoạt chúng?" Dầu vị ấy hộ trì như vậy,
giữ gìn như vậy, vu húa vẫn cướp đoạt các tài sản ấy, trộm cướp vẫn cướp đoạt,
lửa vẫn đốt cháy, nước vẫn cuốn trôi hay các kẻ thừa tự không xứng đáng vẫn cướp
đoạt chúng. Vị ấy than vãn, buồn phiền, khóc than, đấm ngực, mê man bất tỉnh:
"Cái đã thuộc của ta, nay ta không có nữa". Này các Tỷ-kheo, như vậy
là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này
các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do
chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gi hủ tranh đoạt với gi hủ, mẹ tranh đoạt với
con, con tranh đoạt với mẹ, cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, anh
em tranh đoạt với anh em, anh tranh đoạt với chị, chị tranh đoạt với anh, bạn
bè tranh đoạt với bạn bè. Khi họ đã dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh
đoạt; họ công phá nhau bằng tay; họ công phá nhau bằng đá; họ công phá nhau bằng
gậy; họ công phá nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần
như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)...
là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục
làm nhân, họ cầm mâu và thuẫn, họ đeo cung và tên, họ dàn trận hai mặt, và tên
được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Họ bắn
đâm nhau bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở
đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như
vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)... là nguyên nhân của dục. Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ cầm mâu và thuẩn,
họ đeo cung và tên, họ công phá thành quách mới trét vôi hồ và tên được nhắm bắn
nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Ở đây, họ bắn đâm nhau
bằng tên, họ quăng đâm nhau bằng đao, họ đổ nước phân sôi, họ đè bẹp nhau bằng
đá, họ chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần
như tử vong. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục... (như trên)...
là nguyên nhân của dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục
làm nhân, họ đột nhập nhà cửa, họ cướp giật đồ đạc, họ hành động như kẻ cướp, họ
phục kích các đường lớn, họ đi đến vợ người. Các vu húa khi bắt được một người
như vậy liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy,
họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ cắt
mũi, họ xẻo tai cắt mũi, họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng hình phạt bối đồi
hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò), họ dùng hình phạt la hầu khẩu hình... Hỏa
man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa)... chúc thủ hình (đốt tay)... khu hành
hình (lấy rơm bện lại rồi siết chặt)... bì y hình (lấy vỏ cây làm áo)... linh
dương hình (hình phạt con dê núi)... câu nhục hình (lấy câu móc vào thịt)... tiền
hình (cắt thịt thành hình đồng tiền)... khối trấp hình... chuyển hình... cao đạp
đài... họ tưới bằng dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy
gươm chặt đầu. Ở đây họ đi đến tử vong, đi đến sự đau khổ gần như tử vong. Này
các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm của dục... (như trên)... là nguyên nhân của
dục. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân... do chính dục làm nhân, họ sống
làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý. Do họ
sống làm các ác hạnh về thân, làm các ác hạnh về lời nói, làm các ác hạnh về ý,
khi thân hoại mạng chung, họ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm các dục, đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn,
do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nhân duyên, do chính dục làm
nhân.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly các
dục. Này các Tỷ-kheo, đây là sự điều phục dục tham đối với các dục, sự đoạn trừ
dục tham, như vậy là sự xuất ly các dục.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là
sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định
sẽ không như thật tuệ tri các dục của họ, họ cũng không có thể đặt người khác
trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy
không thể xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ tri
vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất
ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định sẽ như thật tuệ tri các dục của
họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật
tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, như các thiếu nữ Sát-đế-lỵ, thiếu nữ Bà-la-môn hay
thiếu nữ Gi hủ, tuổi khoảng độ mười lăm hay mười sáu tuổi, không quá lớn, không
quá thấp, không quá ốm, không quá mập, không quá đen, không quá trắng, này các
Tỷ-kheo, có phải trong thời ấy, họ đạt đến mỹ diệu tối thượng, sắc đẹp tối thượng?
– Bạch Thế Tôn, phải.
– Này các Tỷ-kheo, y cứ sắc đẹp mỹ diệu ấy
khởi lên lạc thọ và hỷ thọ, như vậy là vị ngọt các sắc pháp.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây người t ó thể thấy bà chị ấy trong một thời
khác, khoảng tám mươi tuổi, chín mươi tuổi hay một trăm tuổi, già yếu, cong như
nóc nhà, lưng còm, phải dựa gậy để chống đỡ, vừa đi vừa run rẩy, đau ốm, tuổi
trẻ đã tận, râu rụng, tóc bạc, hư rụng, sói đầu, da nhăn, tay chân bị khô đét
tái xám. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp
xưa ki ủa người đó nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa này các Tỷ-kheo, người t ó thể thấy bà chị ấy bị bệnh hoạn
đau khổ, trầm bệnh, nằm đắm mình trong phân tiểu của mình, phải có người nâng dậy,
phải có người đỡ nằm. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu
về sắc đẹp xưa ki ủa người đó nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị
quăng vào nghĩa địa, một ngày hay hai ngày hay ba ngày, thi thể ấy trương phồng
lên, xanh đen lại, nát thối ra. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải
sự mỹ diệu sắc đẹp xưa ki ủ ô gái đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị
quăng vào nghĩa địa, bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị
các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các
loài côn trùng ăn. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu
về sắc đẹp xưa ki ủ ô gái nay đã biến mất và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị
quăng trong nghĩa địa, với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và
máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau,
không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột bộ xương,
không còn thịt, không có máu, còn được gân cột lại, chỉ còn có xương không dính
lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia, ở đây là xương tay, ở đây là xương chân,
ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương
sống, ở đây là xương đầu. Này các Tỷ-kheo, các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ
diệu về sắc đẹp xưa ki ủ ô gái nay đã biến mất, và sự nguy hiểm đã hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người ta thấy cô gái ấy, thi thể bị
quăng vào nghĩa địa, chỉ có toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống
xương lâu hơn một năm... chỉ còn các xương thối trở thành bột. Này các Tỷ-kheo,
các Người nghĩ thế nào? Có phải sự mỹ diệu về sắc đẹp xưa ki ủ ô gái nay đã biến
mất, và sự nguy hiểm hiện ra?
– Bạch Thế Tôn, sự thật là vậy.
– Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự nguy hiểm
các sắc pháp.
Này
các Tỷ-kheo và thế nào là sự xuất ly các sắc pháp? Này các Tỷ-kheo, đây là sự
điều phục dục tham đối với các sắc pháp, sự đoạn trừ dục tham, như vậy là sự xuất
ly các sắc pháp.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật tuệ tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm
là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định
sẽ không như thật tuệ tri các sắc pháp của họ, họ cũng không có thể đặt người
khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ
tri vị ngọt các sắc pháp là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy,
sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các sắc
pháp của họ, họ cũng có thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các sắc pháp, sự kiện như vậy có xảy ra.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là vị ngọt các
cảm thọ? Ở đây các Tỷ-kheo ly các dục, ly các bất thiện pháp tự chứng và an trú
vào Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các
Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền
thứ nhất... có tầm có tứ, trong khi ấy, nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một
cảm thọ vô hại. Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm
thọ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền
thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất
tâm... Thiền thứ ba... chứng và trú vào Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu
đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh, trong khi ấy nếu vị ấy không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại
người, không nghĩ đến hại cả hai, trong khi ấy vị ấy cảm giác một cảm thọ vô hại.
Này các Tỷ-kheo, tối thượng vô hại ấy, Ta nói là vị ngọt các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự nguy hiểm
các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, các cảm thọ là vô thường, khổ, biến hoại, như vậy
là sự nguy hiểm các cảm thọ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự xuất ly
các cảm thọ? Này các Tỷ-kheo, sự điều phục dục tham đối với các cảm thọ, sự đoạn
trừ dục tham, như vậy gọi là sự xuất ly các cảm thọ.
Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn
nào không như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm
là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định
sẽ không như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ cũng không có thể đặt người
khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện
như vậy không xảy ra. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn nào như thật tuệ
tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy,
sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ tri các cảm
thọ của họ, họ có thể đặt các người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy ra.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy
hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.
14. TIỂU KINH KHỔ UẨN
(Culadukkhakkhandhasuttam)
Như vầy tôi
nghe:
Một thời, Thế Tôn sống giữa giòng họ Sakka
(Thích-ca), trong thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) tại vườn Nigrodha (Ni-câu-luật
Viên). Lúc ấy, có người Sakka tên Mahànàma đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến xong,
đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Mahànàma, dòng
họ Sakka bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con đã hiểu như
thế này lời dạy Thế Tôn: "Tham là cấu ue ủa tâm, sân là cấu ue ủa tâm, si
là cấu ue ủa tâm". Bạch Thế Tôn, con đã hiểu như thế này lời dạy Thế Tôn:
"Tham là cấu ue ủa tâm... si là cấu ue ủa tâm". Tuy vậy, đôi lúc các
tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú,
các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú. Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ:
"Pháp nào tự trong ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập
tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập
tâm ta và an trú?"
– Này Mahànàma, có một pháp trong Ông chưa
được đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và an trú... các si pháp
xâm nhập tâm Ông và an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy trong Ông có thể đoạn trừ
được, nếu Ông không sống trong gia đình, nếu Ông không thụ hưởng các dục vọng.
Và này Mahànàma, vì pháp ấy trong Ông chưa được đoạn trừ, nên Ông sống trong
gia đình và thụ hưởng các dục vọng.
Các dục
vọng, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn. Này
Mahànàma, nếu một vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ,
nhưng nếu vị này chư hứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay
một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy vị ấy chưa khỏi bị các dục chi phối.
Này Mahànàma, khi nào vị Thánh đệ tử khéo thấy như vậy với như thật chánh trí
tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều. Sự nguy hiểm ở đây lại nhiều
hơn", và vị này chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay
một pháp nào cao thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối. Này
Mahànàma, thuở xưa, khi T òn là Bồ-tát, chư hứng được Bồ-đề, chưa thành Chánh Đẳng
Chánh Giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: "Các dục vui ít, khổ
nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn", dầu T ó thấy với như
thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng T hư hứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất
thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng,
T hưa khỏi bị các dục chi phối. Và này Mahànàma, khi nào Ta khéo thấy với như
thật chánh trí tuệ: "Các dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở
đây lại nhiều hơn", và T hứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp
sanh hay một pháp nào khác cao thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.
Và này Mahànàma, thế nào là vị ngọt các dục?
Này Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục này: Các sắc pháp do mắt nhận thức,
khả ái, khả lạc, khả ý, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận
thức...; các hương do mũi nhận thức...; các vị do lưỡi nhận thức...; các xúc do
thân nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, tương ưng với dục, hấp dẫn. Này
Mahànàma, có năm pháp tăng trưởng các dục như vậy. Này Mahànàma, y cứ vào năm
pháp tăng trưởng các dục này, có lạc và hỷ khởi lên, như vậy là vị ngọt các dục.
Và này Mahànàma, thế nào là sự nguy hiểm
các dục?... (như trang... cho đến trang..., với "Này Mahànàma" the ho
"Này các Tỷ-kheo."...) Này Mahànàma, như vậy là sự nguy hiểm các dục
đưa đến đau khổ tương lai, là khổ uẩn, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục
làm nhân duyên, do chính dục làm nhân.
Này Mahànàma, một thời Ta ở tại Rajagaha
(Vương Xá), trên núi Gijjhakuta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, rất nhiều Ni kiền Tử
(Nigantha) tại sườn núi Isigili, trên Kalasila (Hắc Nham), đứng thẳng người,
không chịu ngồi và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ đau, khốc liệt, bén
nhạy. Này Mahànàma, rồi Ta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến
sườn núi Isigili, tại Kalasil hỗ các Nigantha ấy ở, khi đến nơi Ta nói với các
Nigantha ấy:
"– Chư Hiền, tại sao các Người lại đứng
thẳng người, không chịu ngồi xuống và cảm giác những cảm thọ thống thiết, khổ
đau, khốc liệt, bén nhạy như vậy?
"– Này Mahànàma, được nói vậy các
Nigantha ấy trả lời Ta như sau:
"– Này Hiền giả, Nigantha Nataputta-là
bậc toàn tri, toàn kiến, tự xưng là có tri kiến toàn diện như sau: "Dầu t
ó đi, có đứng, có ngủ và có thức, tri kiến luôn luôn được tồn tại liên tục ở
nơi ta". Vị ấy nói như sau: "Này các Nigantha, nếu xưa kia Người có
làm ác nghiệp, hãy làm cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này. Sự
không làm ác nghiệp trong tương lai chính do sự hộ trì về thân, sự hộ trì về lời
nói, sự hộ trì về ý ngay trong hiện tại, ở tại nơi đây. Như vậy chính nhờ sự
thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp quá khứ, sự không làm các nghiệp mới, mà
không có sự tiếp tục trong tương lai. Do sự không tiếp tục trong tương lai, các
nghiệp được diệt trừ; do nghiệp được diệt trừ, khổ được diệt trừ; do khổ được
diệt trừ, cảm thọ được diệt trừ; do cảm thọ được diệt trừ, tất cả khổ đau sẽ được
tiêu mòn". Và vì chúng tôi chấp nhận điều ấy, và chúng tôi kham nhẫn điều ấy,
nên chúng tôi được hoan hỷ.
Này Mahànàma, khi được nói vậy Ta nói với
các Nigantha ấy như sau:
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, trong quá khứ, các Người có mặt hay các Người không có mặt?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, trong quá khứ, các Người không làm ác nghiệp hay có làm ác nghiệp?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, các Người không làm các nghiệp như thế này hay như thế kia.
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng: Mức độ đau khổ như thế này đã trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần
phải trừ diệt? Hay, khi mức độ đau khổ như thế này đã được trừ diệt, thời tất cả
đau khổ sẽ được trừ diệt?
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người có biết
chăng, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu các
thiện pháp?"
"– Thưa Hiền giả, chúng tôi không biết.
"– Chư Hiền, theo các Người nói,
Niganth ác Người không biết: Trong quá khứ các Người có mặt hay các Người không
có mặt; các Người không biết, trong quá khứ các Người không làm các ác nghiệp
hay có làm các ác nghiệp; các Người không biết các Người không làm ác nghiệp
như thế này hay như thế kia; các Người không biết, mức độ đau khổ như thế này
đã được trừ diệt, mức độ đau khổ như thế này cần phải trừ diệt; mức độ đau khổ
như thế này đã được trừ diệt thời tất cả đau khổ sẽ được trừ diệt; các Người
không biết, sự đoạn trừ ngay trong hiện tại các bất thiện pháp và sự thành tựu
các thiện pháp. Chư Hiền Nigantha, sự kiện là như vậy thì những kẻ săn bắn ở đời,
với bàn tay đẫm máu, làm các nghiệp hung dữ, được tái sanh trong loài người, những
hạng ấy có xuất gia trong hàng ngũ Niganth ác Người không?"
"– Hiền giả Gotama, hạnh phúc không có
thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả
Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc thì vua Magadha Seniya
Bimbisara (Tần-bà-ta-la) có thể đạt được hạnh phúc, và vua Magadha Seniya
Bimbisara sống hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Lời nói này thật sự đã được các
Tôn giả Nigantha nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư. Hiền giả Gotama, hạnh
phúc không có thể thành tựu nhờ hạnh phúc. Hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ.
Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc, thời vua Magadha
Seniya Bimbisar ó thể đạt được hạnh phúc; và vua Magadha Seniya Bimbisara sống
hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama. Và chính ta ở đây cần phải được hỏi như sau:
"Giữ ác bậc Tôn Giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara
hay Tôn giả Gotama?" Hiền giả Gotama, lời nói này thật sự đã được chúng
tôi nói lên một cách hấp tấp, không có suy tư: Hiền giả Gotama, hạnh phúc không
có thể thành tựu nhờ hạnh phúc... (như trên)... sống hạnh phúc hơn Tôn giả
Gotama. Hãy để yên sự việc như vậy. Nay chúng tôi hỏi Tôn giả Gotama: "Giữa
quý vị Tôn giả, ai sống hạnh phúc hơn, vua Magadha Seniya Bimbisara hay Tôn giả
Gotama?"
"– Chư Hiền Nigantha, nay Ta sẽ hỏi
các Người một câu, cũng vấn đề này. Nếu các Người vui lòng, hãy trả lời câu hỏi
ấy. Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisar ó thể
không di động thân thể, không nói lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ
luôn bảy ngày bảy đêm có được không?
"– Này Hiền giả, không thể được.
"– Chư Hiền Nigantha, các Người nghĩ
thế nào? Vua Magadha Seniya Bimbisar ó thể không di động thân thể, không nói
lên một tiếng, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn sáu ngày sáu đêm, luôn năm
ngày năm đêm, luôn bốn ngày bốn đêm, luôn ba ngày ba đêm, luôn hai ngày hai
đêm, luôn một ngày một đêm không?
"– Này Hiền giả, không thể được.
"– Chư Hiền Nigantha, T ó thể không di
động thân thể, không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn
trong một ngày một đêm. Chư Hiền Nigantha, T ó thể không di động thân thể ,
không nói lên một lời, sống cảm giác thuần túy lạc thọ luôn trong hai ngày hai
đêm, luôn trong ba ngày ba đêm, luôn trong bốn ngày bốn đêm, luôn trong năm
ngày năm đêm, luôn trong sáu ngày sáu đêm, luôn trong bảy ngày bảy đêm. Chư Hiền
Nigantha, các Người nghĩ thế nào? Sự kiện là như vậy, ai sống hạnh phúc hơn,
vua Magadha Seniya Bimbisara hay Ta?
"– Sự kiện là như vậy, Tôn giả Gotama
sống hạnh phúc hơn vua Magadha Seniya Bimbisara."
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Mahànàma thuộc
giòng họ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
TOÁT YẾU TRUNG BỘ I-II-III
Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải
Bài Kinh Số 13: Đại Kinh Khổ Uẩn
I. Toát Yếu
Mahàdukkhakkhanda
Sutta - The greater discourse on the mass of suffering.
The Buddha
explains the full understanding of sensual pleasures, material form, and
feelings; there is a long section on the dangers in sensual pleasures.
Bản kinh dài
nói về đống khổ.
Phật giải
thích sự liễu tri các khoái lạc giác quan, liễu tri sắc và thọ; có một đoạn rất
dài nói về những nguy hiểm của dục lạc.
II. Tóm Tắt
Các Tỳ kheo đến
thăm các du sĩ ngoại đạo và bị chất vấn có gì khác nhau giữa thuyết của Phật với
ngoại đạo về ba vấn đề dục, sắc pháp và cảm thọ, vì họ cũng như Phật, hiểu biết
hoàn toàn về ba pháp ấy. Tỳ kheo trở về bạch Phật, Phật giảng về sự liễu tri ba
pháp ấy trong giáo lý Ngài, ấy là cần phải liễu tri ba điều: vị ngọt, nguy hiểm
và sự xuất ly khỏi chúng.
A. Trước hết về dục
Vị ngọt là năm
pháp tăng trưởng dục: các sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái do năm giác quan tiếp
nhận. Nguy hiểm là:
1. Vì theo đuổi
năm thứ ấy mà phải vất vả làm lụng đủ thứ nghề nghiệp.
2. Sự đau khổ
thất vọng ê chề nếu sau bao nhiêu nỗ lực theo đuổi mà vẫn không có được điều
mình muốn.
3. Sự mất công
gìn giữ, lo sợ mất mát khi đã có được.
4. Nỗi đau khổ
ghê gớm khi tài sản đã có bị mất trộm, bị tịch thu, bị trôi, bị cháy, bị con hư
phá tán.
5. Vì các dục,
mà chiến tranh xảy ra khắp nơi giữa người với người; ngay cả trong gia đình, vợ
chồng con cái cũng tranh chấp nhau, đưa đến tử vong hoặc đau khổ gần chết.
6. Do dục mà
con người trở nên hung bạo tán tận lương tâm, đánh nhau chết bỏ.
7. Do dục mà
có cướp bóc giết hại, và có những hình phạt ghê gớm dành cho tội nhân.
8. Do dục mà
con người làm các ác hành về thân, ngữ, ý, chết đọa vào các cõi dữ. Đấy là những
nguy hiểm của dục. Sự xuất ly là điều phục lòng tham đối với sắc thanh hương vị
xúc, cho đến đoạn tận tham dục.
B. Về sắc, ở đây là nữ sắc.
Vị ngọt là vẻ
đẹp nơi thiếu nữ, gợi lên cảm giác hỷ lạc nơi người nhìn. Nguy hiểm là vẻ già xấu,
bệnh hoạn nằm một chỗ, đắm mình trong phân tiểu của chính mình khi cô ấy đến tuổi
thành bà ngoại. Nguy hiểm nữa là vẻ ghê tởm của xác chết khi bị quăng bỏ nơi
nghĩa địa, cho đến khi chỉ còn là những đốt xương rời rạc, tan thành tro bụi.
Đó là nguy hiểm của sắc. Sự xuất ly khỏi sắc là điều phục dục tham đối với sắc,
cho đến đoạn trừ tham dục.
C. Về cảm thọ.
Phật đưa ra hỷ
lạc Thiền định, để hiển thị ngay cả lạc thọ vô hại ấy cũng còn có nguy hiểm, huống
hồ các lạc thọ khác. Vị ngọt là hỷ lạc do ly dục ở sơ Thiền, hỷ lạc do định ở
nhị Thiền, lạc ở tam Thiền, xả niệm thanh tịnh ở tứ Thiền. Đấy là vị ngọt tối
thượng của cảm thọ, vì nó vô hại. Nguy hiểm của cảm thọ này là nó cũng vô thường,
biến hoại, nên là khổ. Sự xuất ly các cảm thọ là điều phục dục tham đối với các
cảm thọ, đoạn trừ dục tham.
Người nào như
thật tuệ tri được vị ngọt, nguy hiểm và xuất ly của các dục, sắc, và thọ, thì mới
có khả năng giúp người khác như thật tuệ tri các pháp ấy.
III. Chú Giải
Liễu tri -
parinnà đây có nghĩa là vượt qua, samatikkhama hay từ bỏ, pahàna. Du sĩ ngoại đạo
cho chứng sơ Thiền là liễu tri dục, chứng các vô sắc là liễu tri sắc, chứng Thiền
vô tưởng là liễu tri thọ. Trái lại, Phật dạy ở Bất hoàn đạo mới liễu tri các dục,
ở A la hán đạo mới liễu tri sắc và thọ.
IV. Pháp Số Liên Hệ
Ba pháp: vị ngọt,
nguy hiểm, sự xuất ly.
Năm dục trưởng
dưỡng: sắc, thanh, hương, vị, xúc.
V. Kệ Học Thuộc Lòng
A. Liễu tri dục
Trong giáo
pháp Như Lai
Liên hệ dục, sắc,
thọ
Liễu tri cũng
đồng nghĩa
"Đoạn tận"
và "từ bỏ"
Trước hết, liễu
tri "dục"
Cần biết rõ ba
điều
Vị ngọt và
nguy hiểm
Cùng xuất ly
khỏi dục.
Đây vị ngọt của
dục:
Các sắc đẹp,
tiếng hay,
Mùi thơm và vị
ngon
Cùng xúc giác
êm dịu.
Tất cả những
thứ gì
Năm giác quan
nhận thức
Đem lại sự mê
ly
Là vị ngọt của dục.
Nguy hiểm của năm dục
Thực khó nói cho cùng
Đây chỉ kể sơ lược
Những nguy khổ nói chung
Nào mất công theo đuổi
Chịu bao nỗi nhọc nhằn
Làm đủ thứ nghề nghiệp
Vừa lao lực,
lao tâm.
Nếu nỗ lực
tinh cần
Mà vẫn không
có được
Tài sản mình
mong ước
Họ đấm ngực
khóc than.
Khi được của
vào tay
Họ lo lắng đêm
ngày
Lo tịch thu,
trộm cướp,
Trôi, cháy,
con ăn xài.
Của chưa mất
đã khổ
Sợ vạ gió tai
bay
Khi mất thực
càng khổ
Kêu "Trời,
tôi trắng tay."
Lại dục là
nguyên do
Có xung đột,
đôi co
Đánh nhau đến
trí mạng
Người thân hóa
kẻ thù.
Dục thú đẩy
sát sinh
Tà dâm và trộm
cắp
Cùng mọi việc
gian ác
Đến tán tận
nhân tình.
Do dục, bị tra
khảo
Bằng đủ thứ nhục
hình
Hiện tại phải
tù tội
Còn khổ kiếp
lai sinh.
Dục vui ít khổ
nhiều
Nguy hiểm lại
nhiều hơn
Điều phục, đoạn
tận tham
Ấy là xuất ly dục.
B. Liễu tri Sắc
Vị ngọt của sắc
pháp
Là sắc đẹp gái
trai
Tuổi chưa quá
hai mươi
Mùa xuân của đời
người.
Nguy hiểm của
sắc pháp
Là lúc đã đến
thời
Em gái thành
bà ngoại
Còn đâu nhan sắc
tươi.
Lưng còng, tóc
bạc trắng
Làn da khô
nhăn nheo
Già bệnh nằm một
chỗ
Còn đâu vẻ mỹ
miều.
Vị ngọt đã biến
mất
Chỉ còn lại đắng
cay
Của mối nguy
già, chết
Chờ đợi tấm
thân này.
Nguy hiểm của
sắc pháp
Là thi thể cô
gái
Khi bỏ ngoài
nghĩa địa
Loài chim thú
rỉa thây.
Nguy hiểm của
sắc pháp
Là thi thể cô
gái
Khi chỉ còn bộ
xương
Và xương thành
bột trắng.
Xuất ly khỏi sắc
pháp
Là điều phục dục
tham
Và đoạn trừ
tham dục
Đối với sắc,
không ham.
C. Liễu tri thọ
Vị ngọt của cảm
thọ
Là hỷ lạc sơ
Thiền
Do ly dục sinh
ra:
Vắng bóng niềm
đau khổ.
Và hỷ lạc nhị
Thiền
Do tập trung
sinh ra
Không còn tầm
với tứ:
Một cảm thọ ngọt
ngào.
Tam Thiền thuần
lạc thọ
Và xả thọ
thanh tịnh
Ở định chứng tứ
Thiền
Là vị ngọt cảm thọ.
Nguy hiểm của cảm thọ:
Tối thượng vô hại này
Bị vô thường biến hoại
Nên vẫn nằm
trong khổ.
Xuất ly các cảm
thọ
Là điều phục dục
tham
Đoạn trừ hết dục
tham
Với tất cả cảm
thọ.
Ai như thật tuệ
tri
Vị ngọt là vị
ngọt
Nguy hiểm là
nguy hiểm
Xuất ly là xuất
ly
Thì tự mình giải
thoát
Khỏi đau khổ sầu bi
Và có thể đưa
người
Tuệ tri các cảm
thọ.
Bài Kinh Số 14: Tiểu Kinh Khổ Uẩn
I. Toát Yếu
Cūladukkhakkhandha
Sutta - The shorter discourse on the mass of suffering.
A variation of
the preceding, ending in a discussion with Jain ascetics on the nature of
pleasure and pain.
Bản Kinh Ngắn Về Đống Khổ.
Một dạng như
kinh số 13, kết thúc bằng một cuộc đàm luận với những người Kỳ na giáo tu khổ hạnh,
về bản chất của lạc và khổ.
II. Tóm Tắt
Māhanāma hỏi
Phật, vì nguyên nhân gì thỉnh thoảng ông vẫn bị tham sân si xâm chiếm mặc dù đã
biết đấy là cấu uế của tâm, và hỏi có pháp nào trong ông chưa đoạn khiến ông vẫn
bị tham sân si chi phối. Phật dạy, pháp ấy chính là dục. Vì ông chưa đoạn dục,
để cho dục lèo lái ông nên ông vẫn sống trong gia đình, thụ hưởng các dục. Phật
cho biết dục vui ít, khổ não nhiều, nguy hiểm lại còn nhiều hơn. Về dục, nên biết
rõ vị ngọt, nguy hiểm và sự xuất ly. Nhưng nếu thấy rõ như vậy với Trí tuệ chân
chính, mà chưa chứng được hỷ lạc Thiền định hay các pháp thù thắng hơn, thì vẫn
còn bị dục chi phối. Đó là kinh nghiệm bản thân của Phật.
Kế tiếp, Phật
kể cho Mahānāma nghe mẩu đối thoại của Ngài với những người theo phái Ni Kiền Tử
thực hành nhiều khổ hạnh, cảm thọ những đau khổ khốc liệt để chuộc tội lỗi quá
khứ, vì tin như vậy sẽ được giải thoát.
Phật hỏi họ
năm điều: Họ có biết được trong quá khứ họ có hiện hữu hay không? Trong quá khứ,
họ có làm ác nghiệp hay không? Trong quá khứ, họ đã làm những ác nghiệp gì? Họ
có biết đã trừ được bao nhiêu đau khổ, còn lại bao nhiêu đau khổ chưa trừ
không? Họ có biết đoạn trừ ngay trong hiện tại những bất thiện và hoàn thành
các thiện pháp không? Các người đệ tử theo phái khổ hạnh đều không biết. Nhưng
vì họ tin nhân quả nghiệp báo, Phật kết luận: "Vậy thì những người xuất
gia trong Ni Kiền Tử phải từng là những kẻ ác ôn ghê gớm" (cho nên mới phải
hành thân hoại thể để chuộc tội).
Nhưng người Ni
Kiền Tử lại nói: “Hạnh phúc thành tựu nhờ đau khổ. Nếu hạnh phúc thành tựu nhờ
hạnh phúc, thì vua Bình sa (Bimbisāra) sẽ hơn Tôn giả Gotama, vì vua đang sống
hạnh phúc hơn Tôn giả Gotama.” Ni Kiền Tử lầm lạc khoái lạc giác quan là hạnh
phúc, nên khi Phật hỏi liệu vua Bình sa có thể làm như Ngài, ngồi yên bất động
trong nhiều ngày mà vẫn cảm thấy thuần túy lạc thọ, thì Ni Kiền Tử phải công nhận
Phật sống hạnh phúc hơn vua.
III. Chú Giải
Mahānāma có họ
với Phật, ông là anh của Anuruddha và Ānanda. Theo Sớ giải, ông đã chứng quả Bất
hoàn, nghĩa là chỉ có suy giảm tham sân si chứ chưa đoạn tận. Vì ông lầm tưởng
khi vào đạo lộ Bất hoàn là đã đoạn tận tham sân si, nên mới ngạc nhiên khi thấy
trong tâm ông thỉnh thoảng chúng lại sinh khởi.
Phật đưa vào
đây câu chuyện về khổ hạnh cốt để nói, giáo lý Ngài là Trung đạo, tránh xa hai
cực đoan hưởng thụ và ép xác.
IV. Pháp Số Liên Hệ
Ba độc: tham, sân, si. Ba pháp: vị ngọt, nguy hiểm,
xuất ly. Bốn Thiền.
V. Kệ Học Thuộc Lòng
A. Nguyên nhân của cấu uế là dục
Từ lâu con đã
hiểu
Lời dạy của Thế
Tôn
Tham sân si cấu
uế
Vẫn xâm chiếm
tâm con.
"Pháp nào
con chưa đoạn
Khiến cấu uế
xâm nhập
Và chiếm cứ
tâm con
Xin Thế Tôn chỉ
dạy."
Này Mahanama
Vương tử dòng
Thích ca
Dục trong người
chưa đoạn
Do đời sống tại
gia.
B. Thay dục lạc bằng Thiền lạc
"Dục vui
ít khổ nhiều
Nguy hiểm càng
nhiều hơn
Dù tuệ tri như
vậy
Và chí muốn xuất
ly
Nhưng chưa chứng
Thiền lạc
Hoặc pháp thù
thắng hơn
Thì dục vẫn
chi phối
Và xâm chiếm
tâm ngươi."
C. Khổ hạnh vô ích Phật bác Ni Kiền Tử
Để hiển thị
Trung đạo
Lìa xa hai cực
đoan
Hưởng lạc và
ép xác.
Ni Kiền Tử chủ
trương
Cần hành hạ
thân xác
Chuộc tội lỗi
quá khứ
Đời sau được
an lạc.
Nhưng vì không
thể biết
Đời trước làm
tội gì
Đã chuộc được
bao nhiêu
Còn bao nhiêu
chưa chuộc
Nếu thực sự khổ
đau
Do ác nghiệp về
trước
Thì chắc Ni Kiền
Tử
Đã tạo nhiều
phi phước.
"Dù có
nói thế nào
Hạnh phúc
không thể đạt
Nhờ con đường
hưởng lạc
Mà phải nhờ ép
xác.
Nếu hiện tại
hưởng lạc
Mà tạo được
nhiều phúc
Thì Tần Bà Sa La
Sẽ hạnh phúc hơn Phật."
Phật hỏi Ni Kiền Tử
"Phải chăng người đã nghĩ
Vua Tần Bà Sa La
Đang hạnh phúc hơn ta?"
"Thưa Cồ Đàm, chính phải
Hay là như thế nào
Thực tình, tôi không rõ
Xin Ngài làm sáng tỏ."
"Này ngươi Ni Kiền Tử
Vua có ngồi một mình
Với thuần túy lạc thọ
Suốt ngày đêm được chăng?"
"Không, có lẽ là không."
"Ta có thể nhiều ngày
Im lặng, thân bất động
Vẫn hoàn toàn hạnh phúc."
Ni Kiền Tử kết luận
"Nếu sự tình là vậy
Thì Thế Tôn hạnh phúc
Hơn Tần Bà Sa La."
Và Ma-ha-na-ma
Tin nhận lời Thế Tôn
Rằng hỷ lạc Thiền định
Thù thắng hơn dục lạc.